ứng dụng công nghệ sinh học
Rate this post

Qúa trình phát triển của công nghệ sinh học

Nhiều quá  trình công nghệ sinh học hiện nay có nguồn gốc từ các quá trình lên men cổ truyền như lên men rượu, bia, men bánh mì, sữa chua, phô mát, dấm. Chỉ khi công nghệ lên men sản xuất penicillin thực hiện trên quy mô lớn thì ngành công nghệ lên men mới thực sự có những bước nhảy vọt. Từ đó đến nay chúng ta đã chứng kiến sự phát triển phi thường củ công nghệ này. Biết bao sản phẩm mới do công nghệ lên men cung cấp làm phong phú thêm cuộc sống và cứu chữa được bao nhiêu mạng sống thoát khỏi tử thần. Nhìn về tương lai, các nhà khoa học đều cho rằng thế kỷ XXI sẽ là kỷ nguyên của công nghệ sinh học cũng như hóa học và vật lý là đặc trưng của thế kỷ XX.

Về mặt lý thuyết, công nghệ sinh học có thể chuyển một gen từ một sinh vật này sang bất kỳ một sinh vật nào khác, vi sinh vật khác, thực vật hay động vật khác. Trê thực tế có rất nhiều yếu tố chi phối như những gen nào phải tạo vòng vô tính và cách chọn gen đó như thế nào. Yếu tố hạn chế nhất trong việc ứng dụng kỹ thuật di truyền là sự thiếu kiến thức khoa học cơ bản về cấu trúc của gen chức năng. Đối với thực vật phải lưu ý rằng chỉ khoảng 150 gen thực vật trong tổng số 10000 cho đến nay đã biết được đặc điểm ở mức ADN.

Công nghệ sinh học đang phát triển gần với tốc độ phát triển của vi điện tử vào những năm 70. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu về công nghệ sinh học luôn hướng các nghiên cứu vào mục đích thương mại nhằm mục đích vừa phục vụ vừa thu lợi nhuận. Công nghệ sinh học mới sẽ có những ảnh hưởng to lớn đến tất cả các ứng dụng công nghiệp của khoa học về sự sống. Càn ngày người ta càng nhận thấy rằng nguồn nhiên liệu lỏng có nguồn gốc hóa thạch chẳng bao lâu nữa sẽ hết, các nguồn năng lượng khác sẽ được nghiên cứu thay thế, công nghệ sinh học sẽ giúp các nhà khoa học  nghiên cứu tìm ra các nguồn năng lượng mới vừa rẻ tiền vừa an toàn hơn. Những quốc gia có điều kiện khí hậu phù hợp với điều kiện sản xuất sinh khối có những ưu thế lớn lao hơn về mặt kinh tế hơn các quốc gia có điều kiện kém phù hợp. Những nước nhiệt đới phải nắm được tiềm năng to lớn của mình để đẩy mạnh phát triển công nghệ sinh học.

Công nghệ sinh học mới dường như xuất hiện sớm nhất trong lĩnh vực bảo vệ sức khỏe và Y học tiếp sau là công nghệ thực phẩm. Năm 1982 bằng công nghệ gen đã tạo ra được insullin để điều trị đái tháo đường. Trong việc chẩn đoán hiện nay có hàng trăm bộ KIT chẩn đoán khác nhau vừa chính xác vừa cho kết quả nhanh chóng, đặc biệt phát hiện các mầm bệnh có trong máu giúp cho việc truyền máu an toàn hơn. Công nghệ sinh học giúp cho việc cải thiện chất lượng thực phẩm, tăng dinh dưỡng, tạo ra các thực phẩm chức năng giúp con người sống lâu hơn và chất lượng cuộc sống tốt hơn.

Những ngành công nghiệp dựa trên cơ sở công nghệ sinh học sẽ không cần  nhiều nhân công mặc dù chúng tạo ra một khối lượng vật chất có giá trị lớn. Tuy nhiên,  những lao động này đòi hỏi phải có tri thức hơn là lao động cơ bắp.