Theo dõi tần số, biên độ hô hấp thường xuyên theo chỉ định, ghi vào bảng (15 – 30 phút một lần). Có thể để bệnh nhân theo tư thế Fowler. Hút đờm rãi vùng họng, miệng.
– Trường hợp mất máu nhiều cần bù đủ bằng truyền máu:
+ Cho bệnh nhân dùng kháng sinh đúng liều, đúng giờ quy định.
+ Nối ống dẫn lưu màng phổi vào lọ đồng thời cần theo dõi như các dẫn lưu màng phổi khác.
+ Cần theo dõi bụng để phát hiện các tổn thương phối hợp bụng ngực bị bỏ sót: bụng có đau không?
+ Cần theo dõi xem có biểu hiện cảm ứng phúc mạc hay không.
+ Tiếp tục theo dõi lồng ngực để phát hiện sớm tràn máu, tràn khí màng phổi để có xử trí kịp thời và đúng.
– Một số trường hợp sau mổ có thể có tràn khí dưới da. Khí tràn và tổ chức dưới da có thể do từ không khí bên ngoài thành ngực qua vết thương hoặc từ trong ra (khí trong màng phổi, rách nhu mô phổi và phế nang). Triệu chứng là da căng, sờ vào thấy cảm giác lép bép ở dưới tay.
– Trong trường hợp này nếu tràn khí dưới da ít thì sau vài ngày có thể hết; nhưng nếu tràn khí dưới da tăng
dần, cần báo bác sĩ ngay để phải hoặc khâu lại vết thương thành ngực hoặc mở ngực để khâu vết
thương nhu mô phổi.
– Một biến chứng nguy hiểm sau mổ vết thương ngực là có thể gây ra tràn khí trung thất, đòi hỏi xử trí cấp cứu. Triệu chứng chính là bệnh nhân khó thở nặng, tím tái, cổ bạnh lên, vùng hõm trên xương ức phồng to. Xử trí cấp cứu trường hợp này là cần chọc một kim to (d>1,5mm) vào hõm trên xương ức cho khí thoát ra ngoài; nếu nhẹ sau khi chọc kim sẽ khỏi dần, nếu nặng phải mổ ngực để khâu vết rách phổi.
Copy ghi nguồn: https://brabantpharma.com
Link bài viết: Chăm sóc bệnh nhân sau mổ vết thương ngực hở