- Thân tử cung
Là phần thay đổi nhiều nhất
- Trọng lượng
Bình thường khi chưa có thai, tử cung nặng 50 – 60 g, cuối thời kì mang thai có thể lên đến 1000g. Trọng lượng tử cung tăng do các yếu tố:
- Tăng tạo các sợi cơ tử cung mới
- Tăng sinh các mạch máu bao gồm cả động mạch và tĩnh mạch và xung huyết
- Cơ tử cung tăng giữ nước
Sợi cơ tử cung có thể rộng gấp 3 -4 lần, dài gấp 40 lần so với bình thường
- Dung tích
Bình thường: 2 -4 ml, sâu 6 – 8 cm
Khi có thai : 4000 – 5000 ml, sâu 32 cm
Đa ối, đa thai dung tích buồng tử cung có thể tăng lên nữa
- Hình thể
Trong 3 tháng đầu tử cung to nhiều về nhiều trước sau, có hình cầu. Phần dưới phình to, có thể sờ thấy qua túi cùng bên âm đạo. Tử cung phát triển không đối xứng do thai không chiếm hết toàn bộ tử cung.
Vào ba tháng giữa, cực dưới tử cung to hơn cực trên và có hình trứng
Đến ba tháng cuối hình dáng của thai nhi quyết định hình thể của tử cung. Nếu thai nhi nằm dọc tử cung có hình trứng. Ngược lại tử cung sẽ bè ngang nếu thai nhi nằm ngang.
Xem thêm: Hột le của phụ nữ nằm ở đâu? Có tác dụng gì? Kích thích như thế nào?
- Vị trí
Bình thường tử cung nằm ở đáy chậu, trong tiểu khung. Từ tháng thứ hai của thai kì, mỗi tháng tử cung lớn lên, trên khớp vệ trung bình mỗi tháng 4cm. Cuối cùng đáy tử cung tiến dần đến gan. Khi cao vào ổ bụng tử cung thường lệch sang phải và xoay về phía phải nên sừng trái của tử cung thường nhô ra trước.
Sự phát triển của tử cung làm thay đổi vị trí giải phẫu của các tạng trong ổ bụng.
- Cấu tạo
Tử cung được chia làm ba phần: thân, eo và cổ tử cung và gồm ba lớp : thanh mạc, cơ và niêm mạc
- Cơ tử cung: tính từ ngoài vào gồm các lớp: cơ dọc, cơ đan và cơ vòng.lớp cơ dọc đi từ đáy tử cung tới các dây chằng của tử cung. Lớp cơ vòng có các sợi cơ giống như cơ thắt quanh lỗ vòi trứng và lỗ trong cổ tử cung. Quan trọng nhất là lớp cơ ở giữa: cơ đan hay còn gọi cơ chéo. Đây là lớp cơ dày nhất, các sợi cơ đan chéo nhau về mọi hướng, trong có nhiều mạch máu. Lớp cơ này phát triển rất mạnh khi có thai. Đây là lớp cơ tạo thành khối an toàn để cầm máu sinh lý sau khi rau sổ bằng cách co chặt lại. Ở đoạn dưới không có lớp cơ này. Khi không có thai, cơ tử cung dày khoảng 1cm, ở tháng thứ 4 – 5 lớp cơ dày nhất khoảng 2,5cm, tuy nhiên đến cuối thai kì lớp cơ này lại mỏng đi còn khoảng 0,5 – 1 cm.
- Niêm mạc tử cung: ngoại sản mạc chính là niêm mạc tử cung biến đổi thành gồm: ngoại sản mạc trứng, ngoại sản mạc tử cung và ngoại sản mạc tử cung-rau. Ngoại sản mạc tử cung rau là phần phát triển mạnh nhất.
- Mật độ
Bình thường mật độ tử cung chắc, nắn thấy đàn hồi. Trong thời kì mang thai, dưới ảnh hưởng của nội tiết tố progesteron cơ tử cung giảm trương lực và mềm đi. Nắn tử cung dễ lún xuống.
- Khả năng co rút và co bóp
Trong thời kì mang thai, tử cung tăng mẫn cảm dễ bị kích thích dẫn đến co bóp và co rút.
- Eo tử cung
Giãn rộng dần, dài và mỏng tạo thành đoạn dưới dài khoảng 10cm vào cuối thời kì chuyển dạ
- Cổ tử cung
Do hiện tượng tăng tuần hoàn và phù nề nên toàn bộ cổ tử cung mềm dần và có màu tím nhạt. Khi chuyển dạ, nút nhầy được hình thành trong lúc mang thai bong ra.