Để phân lập vi sinh vật kháng sinh người ta phải lấy mẫu từ các nguồn cơ chất khác nhau: đất ở ruộng, đất quanh rễ cây, đất nền ở chuồng gia cầm, gia súc… Từ các mẫu đất trên đem phân lập thuần khiết những vi sinh vật kháng sinh mà ta mong muốn bằng các phương pháp đặc trưng và trên các môi trường chọn lọc.
- Mỗi chất kháng sinh được tạo ra bởi một hoặc vài loài vi sinh vật xác định.
- Mỗi loài vi sinh vật xác định có thể tổng hợp ra một hoặc vài chất kháng sinh theo đặc điểm di truyền của chúng.
Rõ ràng để phân lập một vi sinh vật cho một chất kháng sinh đã biết công việc không phức tạp lắm, song để phân lập những vi sinh vật chất kháng sinh mới đòi hỏi công việc phức tạp hơn nhiều, nhất là những kháng sinh chống virus và ung thư.
Phương pháp cấy dịch chiết đất nề lên bề mặt thạch.
Cần chính xác một lượng đất, nghiền trong cối sứ với một lượng nước, sau đó cho vào bình lắc khoảng 5 phút. Dùng nước vô trùng pha loãng thành những nồng độ cần thiết. Nhỏ dung dịch đã pha loãng lên môi trường thạch dinh dưỡng gạt nhẹ lên bề mặt thạch cho phân tán đều. Nuôi trong tủ ấm 30 độ, sau một thời gian 3 – 5 ngày xuất hiện các khuaanr lạc mọc riêng rẽ. Cấy tách khuẩn lạc đó lên thạch nghiêng cho thuần khiết, sau đó nghiên cứu hoạt tính kháng sinh của vi sinh vật phân lập được.
Phương pháp cấy đất trực tiếp lên bề mặt thạch đã chứa sẵn vi sinh vật kiểm định
Trên hộp petri có môi trường dinh dưỡng và chứa vi sinh vật kiểm định, đem gieo cấy trực tiếp các hạt đất lên bề mặt thạch, để tủ ấm 24 – 48 giờ mang ra quan sát. Nếu xung quanh các hạt đất có vòng vô khuẩn, ta biết được vi sinh vật trong hạt đất đó có sinh ra chất kháng sinh chống lại sinh vật kiểm định. Từ cục đất đó ta tiến hành phân lập và được vi sinh vật kháng sinh để nghiên cứu tiếp. Phương pháp này cho biết được ngay là vi sinh vật đối kháng phân lập được có khả năng ức chế vi sinh vật gây bệnh thuộc loại gì.
Phương pháp làm giàu đất
Đất trước khi đem phân lập vi sinh vật sinh kháng sinh được đưa vào chậu thủy tinh, giữ độ ẩm xác định, thỉnh thoảng lại cho thêm một ít vi sinh vật kiểm định vào, trộn đều. Nuôi ở tủ ấm sau một thời gian dài đem ra phân lập theo phương pháp nêu ở mục 1. Bằng phương pháp này dễ dàng thu được vi sinh vật đối kháng vi sinh vật kiểm định mặc dù ban đầu vi sinh vật đối kháng đó có trong đất rất ít.
Thêm kháng sinh vào môi trường phân lập
Xạ khuẩn phát triển chậm hơn vi khuẩn và nấm mốc. Vì vậy để dễ dàng phân lập xạ khuẩn, người ta cho thêm kháng sinh chống nấm và kháng khuẩn với nồng độ 5-25 mcg/ml vào môi trường phân lập. Các kháng sinh thường dùng là tetracyclin, neomycin, nystatin… Bằng cách này người ta dễ dàng phân lập được xạ khuẩn sinh chất kháng sinh.
Phân lập vi sinh vật sinh chất kháng sinh chống ung thư
Hầu hết các kháng sinh chống ung thư vừa có tác dụng tiêu diệt tế bào ung thư, lại vừa có tác dụng tiêu diệt tế bào vi khuẩn. Vì vậy để sàng lọc các vi sinh vật chống ung thư ta có thể dùng vi khuẩn làm mô hình thử ban đầu, vừa đỡ nguy hiểm vừa đỡ tốn kém.
Nguyên lý: trao đổi chất của tế bào ung thư khác với tế bào bình thường. Sự khác biệt đó đặc trưng ở bộ máy hô hấp tế bào, đo cường độ hô hấp của tế bào nhận thấy cường độ hô hấp tế bào ung thư thấp hơn nhiều. Trên cơ sở đó Gauze đã nêu ý kiến dùng tác nhân gây đột biến các tụ cầu, để nhận được các chủng đột biến có cường độ hấp thu oxy thấp hơn làm vi sinh vật kiểm định để thử tác dụng chống ung thư. Sau đó so sánh dộ nhạy của phương pháp dùng tế bào ung thư và tế bào của vi sinh vật đột biến nhận thấy vi sinh vật đột biến có độ nhạy cao hơn. Khi đã chọn lọc ban đầu được chất kháng sinh chống ung thư, phải thử tiếp trên các dòng ung thư in vitro Và in vivo để xác định lại.