Phương pháp điều trị mới bệnh viêm khớp dạng thấp
Các loại thuốc mới được sử dụng để điều trị Viêm Khớp Dạng Thấp phân thành 3 loại :
– Dùng các thuốc ức chế Enzym Cyclo -oxygénase típ 2 ( Cox 2 ).
– Sử dụng các nhân sinh học để điều trị.
-Dùng thuốc chống thấp khớp làm thay đổi tiến triển của bệnh (DMARD: Disease Modifying Anti – Rheumatic Drugs).
1.Các thuốc ức chế Enzym Cox 2:
Ngày nay người ta đã biết được ít nhất là 2 thể đồng dạng của Enzym cyclo oxygénase (Cox) là : Cox – 1 là loại enzyme bản thể có nhiều ở các mô và liên quan đến việc sản xuất ra các prostaglandin cần cho quá trình hằng định nội môi bình thường. Trái lại enzym cox -2 là enzyme cảm ứng tìm thấy ở các mô lành với nồng độ thấp nhưng lại tăng lên rõ rệt trong các mô bị viêm , có liên quan đến sinh tổng hợp PGE2 ở vị trí viêm. Vì những thuốc chống viêm không steroid ( AINS ) thông thường vừa ức chế viêm vừa có nhiều tác dụng phụ. Nên thuốc AINS mới ức chế ưu tiên hay chọn lọc trên cox-2 có tác dụng chống viêm và rất ít tác dụng phụ, đây là ưu điểm của các thuốc mới.
MELOXICAM ( Mobic ) : viên 7,5mg và 15mg và ống 15mg. Liều dùng hàng ngày là 15mg/ngày và dùng 1 lần / ngày.
CELECOXIB (CELEBREX) viên 100mg và 200mg. Liều dùng hàng ngày là : 100mg x 2 lần / ngày.
Tác dụng phụ của những thuốc trên gồm các tác dụng phụ chung của loại AINS nhưng với tỷ lệ và mức độ thấp hơn nhiều so với thuốc AINS cổ điển.
Tóm lại các AINS không làm chậm sự tiến triển phá huỷ các khớp trong VKDT.
2.Tác nhân sinh học :
Quan tâm tập trung nhiều vào những tác nhân chống TNF – α , là 1cytokine viêm được phóng thích bởi các đại thực bào ở màng hoạt dịch có tác động như 1 phân tử rất quan trọng , nó chỉ huy các loại tế bào khác ở màng hoạt dịch giải phóng các phân tử tiền viêm và phá huỷ khớp.
ETANERCEPT: Là chất nhị trùng hợp gồm : phần ngoại bào của 2 thụ thể TNF hoà tan ( 75kDa ) hợp nhất với phần Fc trên immuno -globulin G1 người. Etanercept gắn đặc hiệu với 2 phân tử TNF – α hay TNF -β tuần hoàn , vậy nên chẹn sự tương tác của chúng với thụ thể TNF ở trên bề mặt tế bào.
Chỉ định: VKDT vừa đến nặng ở các bệnh nhân đáp ứng không đầy đủ với 1 hay nhiều DMARD.
Liều lượng và cách dùng: 25mg TDD x 2 lần /tuần trong nhiều tháng.
Tác dụng phụ : Gây kích ứng nhẹ ở chỗ tiêm.
INFLIXIMAB: Là kháng thể đơn dòng cấu tạo bởi vùng hằng định của kháng thể người và các vùng thay đổi của chuột nhắt , được dùng bằng đường truyền tĩnh mạch gắn đặc hiệu các dạng TNF -α hoà tan và xuyên màng.
Chỉ định: VKDT thể hoạt động.
Liều lượng , cách dung : 10mg/kg truyền TM liều duy nhất hay chia ra truyền TM 2 lần / tuần.
Tác dụng phụ: viêm phổi nếu dùng liều thấp , bất tiện khi dùng 2 loại thuốc trên là TDD hay truyền TM có thể hạn chế tuân thủ điều trị.
3.Các thuốc DMARD mới:
LEFLUNOMIDE: Là dẫn chất của isoxazole , là loại thuốc DMARD mới nhất được công nhận dùng trong điều trị VKDT. Ở giai đoạn khởi phát, tế bào lympho T CD4 hoạt hoá, gây tăng sinh rất nhanh leflunomide , ức chế sự tăng sinh bằng cách ngăn chặn các tế bào T sản sinh pyrimidine cần cho sự tổng hợp DNA mới trước khi phân bào.
Trình bày: viên 100mg , viên 20 mg.
Liều lượng , cách dùng: 3 ngày đầu dùng 100mg / ngày.
Từ ngày thứ 4 trở đi dùng 10 – 20mg / ngày.
Tác dụng phụ: Có thể gây các triệu chứng tiêu hoá , nổi mẩn ngoài da hay rụng tóc và sẽ hồi phục được khi ngưng thuốc.
Ích lợi lâm sàng của leflunomide khi dùng đơn độc để điều trị VKDT chỉ rõ ràng sau sử dụng hàng năm.
Phương pháp dùng DMARD hiệu quả :
Ở trong phương pháp kim tự tháp truyền thống thì DMARD được dùng tương đối muộn trong quá trình bệnh và sau không được sử dụng nhất quán. Mô hình điều trị bệnh hiện nay áp dụng theo phương pháp răng cưa : DMARD được sử dụng sớm ngay sau khởi phát VKDT và được tiếp tục suốt quá trình bệnh với mục đích là giữ cho tình trạng giảm hoặc mất sức của bệnh nhân gần với mức bình thường nhất . Khi tác dụng của DMARD giảm , phác đồ diiefu trị sẽ được thay đổi bằng cách thêm 1 loại thuốc mới vào phác đồ đang dùng hay bằng cách thay thuốc. Mục đích của phương pháp này là đạt sự cái thiện cơ bản lâu dài cho bệnh nhân VKDT .