dược liệu
Rate this post

  Các bài thuốc ôn trung tán hàn

I, lý trung thang

1, Thành phần của phương thuốc:

+  Bạch truật 90gr

+ Nhân sâm 90gr

+ Chích cam thảo 90gr

+ Can khương 90gr

2, Cách dùng của bài thuốc:

Các vị thuốc trên đem nghiền hay tán thành bột mịn, luyện cùng với  mật để làm hoàn, mỗi lần uống 6-9gr, mỗi ngày uống 2-3 lần, uống cùng với nước chín. Có thể đổi thành thang, sắc lấy nước uống, liều dùng căn cứ theo nguyên phương mà quy định.

3, Công năng củ bài thuốc:

Ôn trung khứ hàn, bổ khí kiện tỳ.

4, Chủ trị:

Trung tiêu hư hàn, ỉa lỏng, không khát, nôn mửa,  đau bụng, không muốn ăn uống, thổ tả… Dương hư mất huyết, trẻ nhỏ mạn kinh sau bệnh thích nhổ nước bọt và ngực đau tức do trung tiêu hư hàn mà sinh ra.

5, Phân tích bài thuốc:

Phương thuốc này lấy vị  Can khương tân nhiệt làm quân để ôn trung tiêu mà khu lý hàn.  Vị Nhân sâm đại bổ nguyên khí, giúp sự thăng giáng vận hoá làm thần. Vị Bạch truật kiện tỳ táo thấp, Chích cam thảo giúp  ích khí hoà trung, đều là tá, sứ. Bốn vị thuốc này phối hợp  với nhau có được cái tân nhiệt mà khử lạnh ở trung tiêu, có cái cam ôn mà phục được trung tiêu hư, thanh dương thì thăng mà trọc âm thì giáng, củng cố được sự vận hoá mà trị được trung tiêu, cho nên  được gọi là “ lý trung”.

6, Gia giảm vào phương thuốc:

Nếu dương hư mất máu ( gây nôn ra máu, ỉa ra máu, máu cam) thay vị  Can khương bằng vị Bào khương gia thêm  Hoàng kỳ, Đương quy, A giao.

Nếu tỳ hư thuỷ thấp không hoá, có nhiều đờm thì gia thêm vị Bán hạ để giáng nghịch hoà vị, táo thấp hoá đàm, vị Phục linh để thẩm thấp kiện tỳ là bài Lý trung hoá đờm hoàn.

Nếu khí của hàn thuỷ thịnh lên thì gia thêm vị Quế chi là bài Quế chi nhân sâm thang.

Nếu nôn gia  them vị  Sinh khương.

Nếu trung tiêu hư hàn mà khí trệ thì gia thêm vị Thanh bì, Trần bì.

Bài này gia thêm vị Phụ tử để tán hàn, hồi dương cứu nghịch  gọi là bài Phụ tử lý trung thang.

7, Ứng dụng lâm sang của bài thuốc :

Ngày nay thường dùng bài này để điều trị bệnh loét đường tiêu hoá, viêm dạ dày, xuất huyết đường tiêu hoá, viêm gan mạn tính, viêm khí quản mạn tính, bệnh tim phổi.

 

II, Bài thuốc tứ thần hoàn

 

1,Thành phần của phương thuốc:

Bổ cốt chi 120gr

Ngũ vị tử 60gr

Nhục đậu khấu 6r0gr

Ngô thù du 30g

2, Cách dung bài thuốc:

Tán thành  bột, Sinh khương 240gr, Hồng táo 100 quả, nấu lấy nước, trộn với bột làm hoàn to bằng hạt ngô đồng. Uống mỗi ngày 6 – 9gr, uống lúc đói, hoặc Trước khi ăn với nước trắng. Có thể dùng thang sắc lấy nước uống  liều lượng theo tỷ lệ bài gốc mà chước giảm.

3, Công năng:

Bài thuốc có tác dụng Ôn bổ tỳ thận, sáp trường chỉ tả.

4,Chủ trị:

      Chữa các chứng Tỳ thận dương hư, ngũ canh tả, chán ăn, đi ngoài sống phân, hoặc tiêu chảy lâu ngày không khỏi. Đau bụng, đau lưng, chân tay lạnh, tinh thần mệt mỏi, chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch trầm trì vô lực.

5, Phân tích bài thuốc:

       Trong phương Bổ cốt chi vị cay đắng, tính ấm nóng, có tác dụng ôn tỳ thận, bổ mệnh môn hoả, kiêm tán hàn tà là  vị quân.Vị  Ngô thù du ôn tỳ vị, tán hàn thấp; Vị Nhục đậu khấu ôn noãn tỳ thận, sáp tràng chỉ tả; hai vị phối ngũ với vị  Bổ cốt chi làm cho mệnh môn hoả đầy đủ mà tỳ dương được kiện vận, là vị thần. Tá, sứ chính  là Ngũ vị tử chua liễm, cố sáp; Vị Sinh khương, Đại táo điều bổ tỳ vị, giúp sự vận hoá. Tỳ thận ấm, đại trường bền chặt thì chứng ngũ canh tả hết.

6,Gia giảm bài thuốc:

Nếu có  khí hư hạ hãm gây ỉa chảy lâu ngày, lòi dom gia thêm vị Thăng ma, Hoàng kỳ.

Nếu lưng mỏi, chi lạnh nhiều gia thêm vị Nhục quế, Phụ tử.

Nếu bụng dưới đau gia thêm vị  Tiểu hồi hương, Mộc hương, Ô dược.

7, Ứng dụng lâm sang của bài thuốc:

       Ngày nay thường dung bài này  để điều trị viêm đại tràng mạn tính, viêm ruột mạn tính, lao ruột.