Các vitamin đã được sản xuất ở quy mô công nghiệp nhờ vi sinh vật là vitamin B12, vitamin B2.
Từ giữa thế kỉ 19 (1849) đến đầu thế kỉ 20, nguyên nhân của bệnh thiếu máu ác tính không ai giải thích được. Mãi đến năm 1926 G.R.Minot vá W.P.Murphy phát hiện tác dụng điều trị thiếu máu ác tính của cao gan thì hướng nghiên cứu mới được mở ra. Năm 1927, Castle nhận xét rằng trong dịch tiêu hóa có một chất được gọi là “nhân tố nội”, khi nó kết hợp với một chất được gọi là “nhân tố ngoại” có trong protein của gia súc giúp cho cơ thể hấp thu được “tác nhân chống thiếu máu ác tính”. Đến năm 1948, Ricker và cộng sự ở Mỹ và Smith-Parkers ở Anh đã chiết xuất và kết tinh được những tinh thể hình kim màu đỏ đậm ở cao gan động vật gọi là vitamin B12. Parker đã chứng minh được đó là nhân tố ngoại và cũng là tác nhân chữa thiếu máu ác tính. Từ 1 tấn gan lấy được 20-25 mg vitamin B12.
Cấu trúc hóa học của vitamin B12 do D.C.Hodgkin (giải thưởng Nobel 1964) xác định. Trong động vật và thực phẩm vitamin B12 tồn tại dưới dạng coenzym liên kết với amino acid.
Vitamin B12 là yếu tố sinh trưởng, điều trị bệnh thiếu máu ác tính. Nhu cầu cho người bình thường là 1 mcg/ngày. thiếu vitamin B12 sẽ ảnh hưởng đến chức năng tạo hồng cầu gây ra suy nhược toàn thân. Công dụng chính của vitamin B12 là chữa thiếu máu ác tính và các bệnh thiếu máu khác. Vitamin B12 phối hợp với vitamin B1, B6 dùng điều trị viêm dây thàn kinh gây đau khớp, liệt chân tay rất hiệu quả. Calci-B12 giúp trẻ chống còi xương, chậm lớn…
Vitamin B12 tham gia vào nhiều phản ứng trao đổi chất ở cơ thể, kích thích quá trình sinh tổng hợp protein (thường gọi là nhân tố protein động vật) vì vậy gia súc, gia cầm ăn thức ăn có chứa vitamin B12 sẽ tăng trọng nhanh. Tăng tỉ lệ đẻ trứng và ở gà tăng tỉ lệ trứng nở thành gà con.
Vitamin B12 thuộc loại hợp chất hoạt động sinh lý và được tổng hợp trong tự nhiên hoàn toàn bởi vi sinh vật. Sinh vitamin B12 mạnh nhất là các vi khuẩn propionic và vi khuẩn metan, vitamin B12 nằm trong tế bào của các vi khuẩn này. Thực vật không tạo được vitamin B12. Ở người vitamin B12 do vi sinh vật tạo ra ở ruột già vì thế nó không được hấp thu vào máu. Phân người, gia súc có vitamin B12. Ở động vật: thịt bò, gan, thận, tim; ở hải sản: cua, cá, trứng cá; trong thực phẩm phomat, kem, sữa…. đều có chứa một lượng nhỏ vitamin B12.
Cấu trúc hóa học của vitamin B12:
Phân tử vitamin B12 có dạng coenzym liên kết với amino acid, bao gồm hai phần chính: phần Corin (còn gọi là nhân tố B) và phần nucleotid chứa nito là 5,6 dimethylbenzimidazol, đường ribose và phân tử H3PO4. Nhân Corin phức hợp với phân tử cobalt, cobalt gắn với một gốc R gọi chung là cobalamin. Tùy theo gốc R mà ta có các vitamin B12 và coc các tác dụng sinh học.
Tất cả các cobalamin đều có thể chuyển thành cyanocobalamin khi cho tác dụng với nhóm –CN. Cyanocobalamin và hydroxocobalamin là hai dạng hay dùng trong y học.
Cyanocobalamin là tinh thể hình kim màu đỏ thẫm. Độ chảy 3000C. Tinh thể dễ tan trọng nước, cồn, phenol. Không tan trong ether, clorofom, aceton. Đỉnh 361 nm dùng để định lượng vitamin B12 bằng quang phổ. vitamin B12 bị ánh sáng thủy phân.