Rate this post

Kháng sinh ngày cáng được sử dụng rộng rãi trong y học và không thể thiếu trong quá trình điều trị. Có nhiều loại kháng sinh khác nhau và ngày càng có nhiều loại kháng sinh ra đời.

Kháng sinh là những sản phẩm đặc biệt nhận được từ vi sinh vật hay các nguồ tự nhiên khác có hoạt tính sinh học cao, có tác dụng kìm hãm hoặc tiêu diệt một cách chọn lọc lên một nhóm vi sinh vật xác định hay tế bào ung thư ở nồng độ thấp.

Để một loại kháng sinh được đi vào sử dụng kháng sinh đó phải trải qua quá trình định lượng.

Định lượng kháng sinh bằng phương pháp khuếch tán trên thạch

Đây là một trong hai phương pháp định lượng bằng vi sinh vật hay được áp dụng.

Nguyên tắc: kháng sinh khuếch tán vào môi trường thạch có chứa vi sinh vật kiểm định tạo ra các vòng ức chế sự phát triển của vi sinh vật kiểm định. Đo độ lớn của vòng ức chế kháng sinh chuẩn và kháng sinh thử rồi tính toán hay tra bảng tính sẵn nồng độ sẽ cho kết quả cần phân tích.

Phương pháp khuếch tán trên thạch rất hay dùng để định lượng kháng sinh. Song để chính xác cần lưu ý đến chất lượng thạch, độ dày lớp thạch, pH của môi trường và nhiệt độ nuôi cấy. Những kháng sinh polypeptid rất khó khuếch tán trong thạch, nên thường cho vào môi trường định lượng các chất làm tăng độ khuếch tán của kháng sinh (CaCl2 làm tăng độ khuếch tán của gramicidin C). Hoặc đặt các hộp petri có vỏ vi khuẩn kiểm định vào tủ lạnh ở nhiệt độ 40C trong khoảng 5 – 6 giờ để kháng sinh kịp khuếch tán vào trong thạch, sau đó mới đem ủ ấm ở 37 độ cho vi khuẩn phát triển.

Định lượng kháng sinh bằng phương pháp hoa học và hóa lý

Trong thực tế một số kháng sinh được định lượng bằng phương pháp hóa học và lý hóa. Ưu điểm của phương pháp này là thực hiện nhanh và cho kết quả ngay.

Ví dụ: để định lượng penicillin bằng phương pháp hóa học tiến hành như sau: phá hủy penicillin bằng kiềm, trung hòa rồi oxy hóa các sản phẩm bằng iod. Định lượng iod thừa bằng Natri thiosulfat sẽ tính được iod đã tiêu thụ cho phản ứng oxy hóa và tự đó tính được ra hàm lượng penicillin.

Nguyên tắc của phương pháp hóa lý dựa trên phản ứng tạo màu của kháng sinh hoặc sản phẩm phân hủy của chúng rồi đo bằng quang phổ tử ngoại hoặc máy so màu rồi tính kết quả.

Ví dụ: để định lượng các kháng sinh thuộc nhóm kháng sinh tetacyclin cho các kháng sinh này tạo phức với FeCl3 rồi đo phổ tử ngoại xác định sự biến mất của các đỉnh hấp thụ cực đại của kháng sinh sau khi phân hủy bằng kiềm.

Phương pháp so màu định lượng erythromycin được dựa trên phản ứng tạo màu  của kháng sinh với acid slfuric (27N). Định lượng kháng sinh bằng phương pháp nào là chính xác và thuận tiện đã được quy định rõ ràng trong các dược điển của mỗi quốc gia. Chỉ kháng sinh đã được kiểm nghiệm theo các quy định ở trong dược điển mới có giá trị về pháp lý.