Rate this post

Tăng huyết áp trong tiền sản giật

Tiền sản giật là bệnh cuối thai kì trong đó tăng huyết áp có kèm thương tổn gan, thần kinh, huyết học hoặc thận. Phù xuất hiện nhanh chóng nhất là ở mặt, bàn tay, đồng thời tăng huyết áp, thường báo hiệu khởi phát của bệnh. Có thể thấy vàng da và chức năng gan không bình thường. tăng phản xạ, rối loạn thị giác là dấu hiệu thương tổn thần kinh và các cơn co giật là dấu hiệu tiền sản giật. Các biểu hiện huyết học của tiền sản giật gồm giảm tiểu cầu đòng thời tăng hoạt tính men lactat dehydrogenase, thiếu máu, tiêu huyết vi mạch. Trong tiền sản giật xảy ra đông máu nội mạch rải rác có thể làm giảm fibrinogen trong huyết tương và tăng các sản phẩm giáng hóa fibrin trong máu lưu hành.

Trong tiền sản giật mức thanh thải urat giảm vì tăng tái hấp thu ở ống thận gần, có thể do giảm thể tích nội mạch. Tăng aicd uric thường xảy ra trước khi tăng creatinin huyết thanh và nồng độ nito-ure. Với thể tích tương tự như trong một số trạng thái cao huyết áp khác trong đó co tĩnh mạch sẽ làm tăng áp suất mao mạch, khiến tăng thể tích mô kẽ vì giảm thể tích nội mạch. Fibrin lắng đọng trong cầu thận khiến các tế bào nội mô cầu thận sung lên một cách đặc trưng, thấy rất rõ trong các mẫu sinh thiết thận, có thể thấy cả hoại tử ngoại vi với lắng đọng fibrin trong các xoang của gan. Chụp cắt lớp bằng kĩ thuật điện toán hay cộng hưởng từ cho thấy các vùng mật độ giảm song song với các ổ nhồi máu nhỏ trong não có ở khoảng một nửa số phụ nữ sản giật.

Một tình trạng dị thường trong tính toàn vẹn của lớp nội mô có thể là nguyên nhân làm lắng đọng fibrin lan tỏa. sự gia tăng tổng hợp hai prostaglandin giãn mạch PGE2 và PGI2 có thể cắt nghĩa hiện tượng giãn mạch và sự đề kháng với angiotensin II ở người có thai bình thường. Trong tiền sản giật quá trình tổng hợp PGI2 giảm và tính nhạy cảm với angiotensin II tăng, và có thể mất đi thế cân bằng mà bình thường ra phải có giữa các tác dụng ngưng kết tiểu cầu và co mạch của thromboxane A2 (do tiểu cầu sản xuất ra), góp phần làm tăng huyết áp và ngưng tập tiểu cầu. tuy nhiên tiền sản giật có thể giảm ở các phụ nữ dung một liều nhỏ aspirin trong suốt thời gian có thai.

Một khi đã chẩn đoán là tiền sản giật thì nên cho nhập viện vì bệnh có thể nhanh chóng tiến triển thành sản giật, được đặc trưng bởi các cơn co giật. Điều trị cơ bản tiền sản giật và sản giật là cho xổ thai,phải thực hiện khẩn trương nếu thai đủ tháng và kích thước thích hợp. Nếu thai còn non thì thai phụ nên nằm nghỉ, hạn chế muối ăn và dung thuốc chống tăng huyết áp. Các thuốc ngăn ngừa thụ thể beta, đối kháng caxi, hydralazine và các thuốc đối kháng hệ giao cảm trung ương đều có thể dung được. Chống chỉ định dùng ức chế men chuyển angiotensin vì làm tăng nguy cơ tử vong thai. Các nhà sản khoa từ lâu tỏ ra tín nhiệm với magie sulfat tiêm tĩnh mạch có tác dụng chống cao huyết áp nhẹ và gia tăng tổng hợp PGI2 do các tế bào nội mô.